Đào tạo khởi nghiệp và phát triển các trường đại học khởi nghiệp là hơi thở của thế giới hiện đạii

2023-08-12 00:43:04

Tri thức là một trong những yếu tố quyết định đối với tăng trưởng kinh tế, chính vì thế các hoạt động của một trường đại học khởi nghiệp có thể thực hiện một chức năng quan trọng trong các nền kinh tế dựa trên tri thức.[1] Vai trò của các trường đại học trong môi trường xã hội được phát triển cùng với những thay đổi trong tiến trình phát triển xã hội.

Trong lịch sử phát triển của trường đại học từ mục đích giảng dạy kiến ​​thức trên nền tảng của những thành quả nghiên cứu Triết học, đến việc các trường đại học tận dụng các hoạt động nghiên cứu để thu thập, truyền tải và tích hợp kiến thức. Rồi cũng chính sự chuyến biến này, các nghiên cứu mở rộng giữa các ngành với các phương pháp đáng tin cậy, giúp các học giả tham gia vào việc tạo ra tri thức. Và, sứ mệnh đó được thăng tiến hơn khi các trường đại học mang trên mình sứ mệnh phát triển kinh tế, xã hội và chuyển giao tri thức. Chính sứ vụ này trở thành một phần trong hoạt động nghiên cứu của các trường đại học đối với thế giới kinh tế và xã hội bên ngoài, ảnh hưởng đến thương hiệu Trường Đại học khởi nghiệp. Trong bối cảnh này, trường đại học đóng vai trò trung tâm với vai trò định hướng đổi mới, sáng tạo và tăng trưởng kinh tế.

Từ cuộc cách mạng chuyển hóa tri thức

Trong nhu cầu đào tạo và kiến tạo trí thức, các trường đại học đã được thành lập để thực hiện sứ mệnh phổ biến kiến ​​thức đến từ triết học. Vào thế kỷ 17, xuất hiện với mối quan tâm ngày càng tăng của các cá nhân đối với sự tiến bộ của kiến thức về vũ trụ và thế giới xung quanh khiến các nhà nghiên cứu gặp gỡ nhau để thảo luận về những khám phá và đề xuất những câu hỏi mới không chỉ nhằm mục tiêu trả lời những câu hỏi “tại sao” trong Triết học nguyên thủy.

Vào giữa thế kỷ 18, cuộc Cách mạng Công nghiệp đã nổ ra, các phát minh từ kết quả của các công trình thí nghiệm và những sản phẩm đơn lẻ đến từ sự khéo léo mang tính thủ công mà chưa có sự tương tác giữa ý tưởng của các nhà khoa học và nhà phát minh trong các quy trình sản xuất công nghiệp. Theo kết quả nghiên cứu luận án tiến sĩ về các công ty khởi nghiệp trong các trường đại học, Martins đã nhận định trong thời kỳ này, khoa học vẫn tập trung với việc tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi do các hiện tượng tự nhiên hình thành và sau đó, dần dần chuyển sang giải thích các câu hỏi đặt ra từ các quá trình sản xuất của thời đại.[2]

Thế kỷ 19, mối liên hệ giữa công nghệ và khoa học đã diễn ra. Công nghệ bắt đầu sử dụng đáng kể những kết quả nghiên cứu về năng lượng điện và hóa chất. Máy móc, quy trình và sản phẩm bắt đầu xuất hiện từ những tiến bộ khoa học và những phát minh mới được tạo ra. Quá trình kết hợp công nghệ với tri thức khoa học bắt nguồn từ việc kết hợp nghiên cứu vào sứ mệnh của trường đại học. Và chính từ điều này mà mô hình tổ chức mới diễn ra, các trường đại học bắt đầu thừa nhận và thực hành “nguyên tắc tự do học thuật và mối quan hệ chặt chẽ giữa giảng dạy và nghiên cứu.”[3]

Với việc công nhận những người tạo ra tri thức, các trường đại học đã trở thành một phần lợi ích của vốn tư nhân, điều này tạo ra các khu vực sản xuất và thu hút các nguồn vốn đầu tư. Và chính từ sự công nhận này, các kiến thức khoa học kỹ thuật mới, với ứng dụng công nghiệp, được tạo ra trong các viện nghiên cứu cũng như các trường đại học, giúp “chuyển các kết quả nghiên cứu thành tài sản trí tuệ và thành các sản phẩm tri thức có thể bán được trên thị trường.”

Từ cột mốc quan trọng này đến giữa thế kỷ 20, một sự chuyển đổi quan trọng khác đối với trường đại học đã nảy sinh, ngoài sứ mệnh đào tạo vốn có thì các trường đại học tham gia mạnh mẽ vào đổi mới công nghệ. Thế hệ mới này của trường đại học bắt đầu có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và xã hội. Như vậy, trường đại học phát sinh chức năng chủ động trong việc chuyển giao nguồn nhân lực và công nghệ.

Với tiến trình phát triển của thời đại, sứ mệnh của các trường đại học luôn được mở rộng cho phù hợp với sự phát triển của kinh tế, chính trị và xã hội, điều này khẳng định mối quan hệ chặt chẽ tồn tại giữa các hoạt động nghiên cứu, đào tạo của trường đại học với xã hội. Tức là nếu giai đoạn đầu tiên của đại học có mục đích chia sẻ tri thức; giai đoạn kế tiếp là nhằm mục đích sử dụng nghiên cứu để thu thập, truyền tải và tích hợp kiến thức mới; thì thế hệ thứ ba tổng hợp các phát triển kinh tế và xã hội và trọng tâm của việc chuyển giao tri thức cho các sứ mệnh đã được phát triển. Do đó, có thể nói rằng, một loại hình trường đại học mới ra đời đó là trường đại học khởi nghiệp và xuất phát từ tính năng động của nó bằng cách tìm kiếm các nguồn tài nguyên mới và mối quan hệ với môi trường xung quanh.

Thế kỷ 20 đến với nhiều sự thay đổi, sự hiểu biết về quá trình đổi mới, chuyển từ quá trình tuyến tính sang phán đoán về các mô hình lặp và xoáy. Các công ty R&D (công ty nghiên cứu và phát triển) tìm kiếm các tác nhân bên ngoài để cung cấp các chuyển đổi, tạo ra các mạng lưới đổi mới, các quy trình đổi mới phân tán. Cách tiếp cận này củng cố bằng các nghiên cứu xác định trường đại học là trung tâm phát triển trong một xã hội đổi mới, đang tồn tại hoặc đang trong quá trình chuyển đổi và bằng cách tham gia vào các mạng lưới nghiên cứu và giáo dục toàn cầu, đóng góp như một tác nhân cần thiết của sự thay đổi và duy trì xã hội tri thức.

Sau khi Đạo luật Bayh-Dole (trước đây được gọi là Bản sửa đổi Đạo luật Nhãn hiệu và Bằng sáng chế) được ban hành tại Hoa Kỳ vào năm 1980, việc thương mại hóa khoa học, chuyển giao công nghệ đại học, cấp phép, cấp bằng sáng chế và thành lập các công ty khởi nghiệp (spin-off) đã xuất hiện rất năng động ở Hoa Kỳ và các quốc gia ở châu Âu, châu Á, Úc, Canada và Israel. Từ đây, chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy các các trường đại học không chỉ có các hoạt động chuyển giao công nghệ và công viên khoa học, mà nó còn cung cấp một viễn cảnh mới nhằm mang lại lợi ích kinh tế và xã hội rộng lớn hơn cho hệ sinh thái đại học, với việc tạo ra tư duy khởi nghiệp để tạo việc làm.

Đến sự ra đời mô hình trường đại học khởi nghiệp

Với xu hướng phát triển của thời đại, các mô hình trường đại học khởi nghiệp ra đời. Câu hỏi được đặt ra lúc này rằng, trường đại học khởi nghiệp khác gì với các trường đại học thông thường, hay nói cách khác đặc điểm của trường đại học khởi nghiệp có gì nổi bật? Câu hỏi này được rất nhiều những nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau và đó chính là sự đa dạng của các cách tiếp cận khái niệm đối với hiện tượng đại học khởi nghiệp. Tuy nhiên, theo những nhà khoa học Guerrero - Cano, Kirby và Urbano trong một nghiên cứu về hoạt động khởi nghiệp trong các trường đại học đã tìm thấy những đặc điểm nổi bật như hoạt động kinh doanh của các thành viên trong trường đại học, thực hiện các chiến lược để cải thiện việc tạo ra các doanh nghiệp mới và góp phần điều chỉnh cơ cấu tổ chức của các trường đại học.[4] Song khi bàn về đặc điểm kinh doanh của các thành viên trong trường đại học, rất nhiều những học giả đều nhấn mạnh về các tác động của các trường đại học trong môi trường là việc phát triển kinh tế và xã hội từ việc tạo ra tri thức và vốn hóa tri thức. Nói như vậy, có nghĩa là trường đại học là đại diện cho một tác nhân kinh tế trong việc tích hợp phát triển kinh tế, giảng dạy và nghiên cứu. Sự phát triển này mang tính chất khu vực, với các phương pháp quản lý chiến lược, đa dạng hóa cơ sở tài chính và thúc đẩy văn hóa khởi nghiệp.

Giống như thị trường, đại học khởi nghiệp trở nên toàn cầu hóa, công nghệ, đổi mới và cạnh tranh, điều này tạo nên sự chuyển đổi từ một tổ chức tập trung vào các hoạt động nội bộ sang sự kết nối giữa các bên quan tâm bên ngoài. Các hoạt động truyền thống được xác định lại và mở rộng khi trường đại học mở rộng vai trò của mình trong đổi mới. Tương tự như vậy, việc giảng dạy được mở rộng bởi những sinh viên đòi hỏi kiến thức của họ trong các tình huống thực tế và đóng vai trò trung gian kết nối giữa trường đại học và các lĩnh vực thể chế khác. Theo quan điểm này, đại học khởi nghiệp là một hiện tượng phát sinh từ việc phát triển học thuật, mở rộng từ tinh thần khởi nghiệp hàn lâm bảo thủ sang tinh thần khởi nghiệp kiến tạo tri thức.

Ngày nay, các trường đại học khởi nghiệp đóng một vai trò thiết yếu đối với sự phát triển kinh tế ở các quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, cũng có một số nhà phê bình cho rằng tinh thần kinh doanh nên chỉ được cổ vũ trong một số lớp đặc biệt tại các trường đại học, vì họ lo sợ rằng yếu tố tài chính sẽ ảnh hưởng đến trường đại học, dẫn đến việc trường đại học mất vai trò phản biện xã hội độc lập. Hoặc cũng có một số tổ chức, khi xác định các công ty mới nổi lên từ các trường đại học sẽ là đối thủ cạnh tranh của họ cho nên họ thúc đẩy quan điểm “các trường đại học nên tự giới hạn mình trong các mối quan hệ hàn lâm truyền thống như nghiên cứu và tư vấn” và việc phổ biến các nghiên cứu thông qua các ấn phẩm khoa học được coi là vai trò thích hợp nhất đối với một trường đại học.

Tuy nhiên, với sự phát triển của chức năng giảng dạy và nghiên cứu, cũng như chuyển giao công nghệ thông qua liên kết với ngành công nghiệp và phổ biến tư duy khởi nghiệp trong cộng đồng học thuật, các trường đại học khởi nghiệp đã tạo ra một cơ sở hạ tầng đổi mới, với nhiều tác động tích cực cho sự phát triển vi mô và vĩ mô. Quá trình chuyển đổi sang đại học khởi nghiệp thể hiện nhu cầu định hướng chiến lược để kiến thức được sử dụng và từ đây vai trò của trường đại học trong xã hội được mở rộng, hình ảnh của một tổ chức là nguồn sáng tạo công nghệ và góp phần phát triển kinh tế trong tương lai, dẫn đến một quỹ đạo chuyển đổi trường đại học. Chính vì vậy, đại học khởi nghiệp là sự cải tiến của đại học nghiên cứu nhờ kết hợp một động lực tuyến tính nghịch đảo và phản hồi với xã hội.

Trong tác phẩm The Triple Helix: University - Industry - Government Innovation and Entrepreneurship (Chuỗi liên kết: Đại học - công nghiệp - chính phủ cho đổi mới và khởi nghiệp) xuất bản năm 2017, tác giả Etzkowitz đã đưa ra 5 yếu tố chính của mối quan hệ giữa đại học, chính phủ và công nghiệp: a) tổ chức nghiên cứu nhóm; b) tạo ra cơ sở nghiên cứu có tiềm năng thương mại; c) phát triển các cơ chế tổ chức để các tài sản trí tuệ được bảo vệ; d) khả năng tổ chức các công ty trong trường đại học; e) tích hợp các yếu tố học thuật và kinh doanh trong các hoạt động mới như trung tâm nghiên cứu đại học. Năm yếu tố này là một phần của các đặc điểm nổi bật của đại học khởi nghiệp. Hai cái đầu tiên nằm trong giai đoạn cấu trúc ban đầu của đại học nghiên cứu; phần thứ ba tích hợp giai đoạn chuyển đổi từ nghiên cứu sang mô hình học thuật kinh doanh, và hai phần cuối cùng được thực hiện trong giai đoạn cuối kết hợp các đặc điểm của đại học khởi nghiệp.

Hiện nay, tùy thuộc vào quốc gia, các yếu tố văn hóa, chính sách công và xu hướng phát triển của quốc gia và khu vực, các trường đại học được tìm thấy trong các giai đoạn khác nhau. Một số tập trung vào giảng dạy và nghiên cứu, một số khác đang trong quá trình chuyển đổi, cũng như có những trường đã được thành lập như các trường đại học khởi nghiệp.

Và một số mô hình các trường đại học khởi nghiệp

Có rất nhiều mô hình lý thuyết về đại học khởi nghiệp, tuy nhiên trong bài viết này tập trung vào một số mô hình nổi bật nhất trong các nghiên cứu của nhóm tác giả Guerrero-Cano, Kirby và Urbano (2006); Mô hình IPOO, của Salamzadeh, Salamzadeh và Daraei (2011); mô hình của Sooreh, Salamzadeh, Safarzadeh và Salamzadeh (2011).

Nếu theo Guerrero-Cano các cộng sự thì họ tập trung vào nghiên cứu thực nghiệm về thời gian, phát triển một phân loại cho các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến chu kỳ thương mại hóa các sản phẩm khoa học của các trường đại học tại thời điểm đó. Các tác giả dựa trên Lý thuyết thể chế để phân loại các yếu tố thành chính thức và không chính thức. “Các yếu tố chính thức” bao gồm cơ cấu tổ chức và chính quyền của trường đại học, các biện pháp hỗ trợ khởi nghiệp của trường đại học và các chương trình giáo dục khởi nghiệp của trường đại học. Một cách khác biệt, “các yếu tố không chính thức” cấu thành nên thái độ của trường đại học đối với khởi nghiệp, các mô hình, trường hợp, nguyên tắc khởi nghiệp trong trường đại học và hệ thống khen thưởng của trường đại học. Mô hình này cũng tích hợp mối quan hệ giữa sứ mệnh giảng dạy, bao hàm quan điểm giáo dục đào tạo sinh viên tốt nghiệp không chỉ trở thành người xin việc mà còn là người tạo việc làm, mà kết quả cuối cùng của sứ mệnh tương ứng với sự thay đổi. thế hệ hoặc doanh nghiệp mới được tạo ra bởi các sinh viên. Mô hình cũng xem xét sự tồn tại của môi trường và các điều kiện của nó đối với sự phát triển của tinh thần kinh doanh, có thể tích cực hoặc tiêu cực, bị ảnh hưởng bởi các điều kiện kinh tế vĩ mô hoặc vi mô.

Với Salamzadeh và cộng sự lại thông qua Lý thuyết Hệ thống, phát triển mô hình đại học khởi nghiệp, với cách tiếp cận có hệ thống theo mô hình IPOO (Đầu vào - Quá trình - Đầu ra - Kết quả). Các tác giả tiến hành các cuộc phỏng vấn 25 chuyên gia về chủ đề này. Sau khi lập bảng dữ liệu phỏng vấn, các nhà nghiên cứu gặp lại các chuyên gia, nhằm đóng góp thông qua việc xem xét cấu trúc đã phát triển.[5]

Khi sử dụng cách phân loại của mô hình IPOO, các tác giả định nghĩa đầu vào, quy trình, đầu ra và kết quả là “nguồn cung cấp”, tương ứng với những giá trị cốt lõi của trường đại học khởi nghiệp. Đối với “đầu ra”, chúng đề cập đến kết quả của việc chuyển đổi các giá trị đầu vào của quy trình. Về “kết quả”, họ xem xét kết quả của mô hình từ quá trình gia nhập và rút lui. Về khía cạnh “nguồn cung cấp” được hình thành bởi: nguồn lực (con người, tài chính, thông tin và vật chất), quy tắc và quy định, cấu trúc, sứ mệnh, hoạt động kinh doanh năng lực và kỳ vọng của xã hội, ngành, chính phủ và thị trường, các yếu tố cần thiết và định hướng cho các hoạt động của trường đại học khởi nghiệp. Tuy nhiên, thành phần “quy trình” bao gồm: giảng dạy, nghiên cứu, quản lý, hậu cần, thương mại hóa, lựa chọn (giảng viên, học giả và nhân viên), tài chính, tương tác, tương tác đa phương, đổi mới và các hoạt động nghiên cứu và phát triển, liên quan đến vận hành đại học khởi nghiệp. “Đầu ra” thể hiện kết quả thu được khi kết thúc quá trình, đó là sản phẩm, tức là nguồn nhân lực kinh doanh (bao gồm giảng viên đại học, sinh viên tốt nghiệp, nhà nghiên cứu và nhân viên), nghiên cứu được thực hiện phù hợp với nhu cầu thị trường, đổi mới và phát minh, mạng lưới khởi nghiệp và trung tâm khởi nghiệp. Đối với “kết quả”, các yếu tố sau được xem xét: đổi mới và văn hóa đổi mới, tạo ra giá trị kinh tế xã hội và phát triển con người.

Dựa trên các mô hình của Guerreiro-Cano, của Salamzadeh và sử dụng IPA (Importance - Performance - Analysis), cùng với kỹ thuật TOPSIS (Kỹ thuật ưu tiên đặt hàng theo tính tương đồng với giải pháp lý tưởng), năm 2011 nhóm những nhà nghiên cứu Sooreh đã làm nghiên cứu xác định và đo lường các trường đại học khởi nghiệp bằng cách sử dụng kỹ thuật TOPSIS và phân tích tầm quan trọng của hiệu suất, nghiên cứu này đã được đăng trên Tạp chí Global Business and Management Research: An International Journal.[6] Với nghiên cứu Sooreh đã tập trung đến việc sử dụng 9 khối, được các tác giả đặt tên là: đầu vào chính thức, không chính thức và nội bộ; quy trình chính thức, không chính thức và nội bộ; đầu ra chính thức, không chính thức và nội bộ. Trong khối “đầu vào”, các yếu tố môi trường được phân loại, trong khi "đầu ra" tương ứng với các yếu tố được tham khảo tại chính trường đại học khởi nghiệp thông qua kết quả nghiên cứu của các tác giả, thu được thông qua các cuộc họp trong các nhóm tập trung với các chuyên gia về chủ đề này.

Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy, việc đào tạo môn khởi nghiệp hoặc phát triển cao hơn là thành lập các trường đại học khởi nghiệp là một nhu cầu tất yếu và là hơi thở của tiến trình phát triển của nhân loại. Hơn nữa, ở mỗi trường đại học khởi nghiệp có thể áp dụng các mô hình hoạt động khác nhau, tuy nhiên các mô hình của các trường đại học khởi nghiệp thường có ba đặc điểm nổi bật đó là tập trung vào các hoạt động kinh doanh (thương mại hóa) các sản phẩm của các thành viên trong trường đại học; tập trung vào những đóng góp mà trường đại học mang lại cho môi trường xã hội; các chiến lược cải tiến trong việc thành lập doanh nghiệp và những thay đổi trong cơ cấu tổ chức. Với sự phát triển từ các chức năng giảng dạy và nghiên cứu truyền thống sang các hoạt động liên quan đến chuyển giao công nghệ thông qua liên kết với ngành và phổ biến tư duy kinh doanh trong cộng đồng đại học, vì các trường đại học khởi nghiệp đã tạo điều kiện cho các tổ chức tạo ra cơ sở hạ tầng đổi mới đã tác động đến sự đổi mới, tạo ra các ứng dụng công nghệ mới và toàn cầu hóa, góp phần tạo nên một không gian liên kết, thăng tiến tri thức và hỗ trợ những thay đổi hiệu quả, thúc đẩy, trong môi trường xã hội, những đổi mới thuận lợi đến sự phát triển của các nền kinh tế.

TS.  Đinh Việt Hòa
Chủ tịch Hiệp hội Khởi nghiệp Quốc gia

 

Tài liệu tham khảo:

[1] Audretsch, D. B., Keilbach, M. C., & Lehmann, E. E. (2006). Entrepreneurship and economic growth. Oxford University Press

[2] Martins, P. S. (2014), Trường đại học và tinh thần kinh doanh học thuật Brazil, (Luận án tiến sĩ), Đại học São Paulo, Brazil.

[3] Plonski, G. A., Carrer, C. C. (2009). Đổi mới Công nghệ và Giáo dục Khởi nghiệp: Hoạch định tương lai. Nhà xuất bản Đại học Sao Paulo

[4] Guerrero-Cano, M., Kirby, D., & Urbano, D. (2006), Tổng quan tài liệu về các trường đại học khởi nghiệp: cách tiếp cận thể chế, Trình bày tại Hội nghị Tiền truyền thông cho các Đại hội lần thứ 3. Khoa Kinh tế Kinh doanh, Đại học Autonomous Barcelona

[5] Salamzadeh, A., Salamzadeh, Y., & Daraei, M. (2011), Hướng tới một khuôn khổ hệ thống cho một trường đại học khởi nghiệp: một nghiên cứu trong bối cảnh Iran với mô hình IPOO.

[6] Sooreh, L. K., (2011), Xác định và đo lường các trường đại học khởi nghiệp: một nghiên cứu trong bối cảnh Iran bằng cách sử dụng kỹ thuật TOPSIS và phân tích tầm quan trọng của hiệu suất, Nghiên cứu quản lý và kinh doanh toàn cầu: Tạp chí quốc tế.

Co loi xay ra
Co loi xay ra
Ago Mom cải thiện khả năng thụ thai, tình trạng hiếm muộn ở phụ nữ
Ago Dad hỗ trợ sức khỏe sinh sản nam giới bổ sung dưỡng chất cần thiết, tăng cường sức khỏe, bổ thận và ích tinh cho nam giới