Chiều 10/6, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng giải trình một số vấn đề lớn được các đại biểu Quốc hội quan tâm liên quan dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi.
Can thiệp sớm các tổ chức tín dụng
Thống đốc cho biết việc can thiệp sớm là điểm mới ở dự thảo luật lần này. Những quy định đã được ban soạn thảo dự thảo trên cơ sở thực tiễn những vướng mắc trong quá trình tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém trong thời gian qua, cũng như sự kiện thực tiễn rút tiền hàng loạt của SCB tháng 10/2022. Và đặc biệt, đơn vị soạn thảo cũng tham khảo kinh nghiệm từ sự đổ vỡ của các ngân hàng trên thế giới, gần đây là ngân hàng thương mại của Mỹ.
Với một tổ chức tín dụng (TCTD) được thành lập cấp phép, trong quá trình hoạt động của mình do những yếu tố khách quan và chủ quan mà các đơn vị sẽ có những thời điểm, giai đoạn gặp khó khăn. Trong quá trình thanh tra giám sát, cơ quan quản lý cũng sẽ cảnh báo rủi ro để các TCTD chấn chỉnh kịp thời.
Còn nếu các TCTD có những diễn biến xấu hơn, có nguy cơ mất khả năng chi trả cho người dân thì mức độ quản lý của cơ quan quản lý cần mạnh hơn thông qua quá trình can thiệp sớm.
"Trong quá trình can thiệp sớm thì trước hết là trách nhiệm của các cổ đông và chủ sở hữu của ngân hàng. Họ phải có phương án xây dựng để khắc phục những khó khăn. Cơ quan quản lý sẽ đưa ra những hạn chế trong hoạt động của họ. Đặc biệt trong giai đoạn này cần những giải pháp hỗ trợ", Thống đốc chia sẻ.
Luật hiện hành có quy định can thiệp sớm nhưng quy định thời hạn chỉ trong một năm và không quy định biện pháp hỗ trợ cho nên trong thực tiễn rất khó triển khai. Chính vì vậy, dự thảo Luật lần này có các biện pháp hỗ trợ.
Những biện pháp hỗ trợ lần này có quy định hỗ trợ từ Ngân hàng Nhà nước với vai trò người cho vay cuối cùng khi khó khăn về thanh khoản chi trả cho người dân. Ngoài ra dự thảo cũng quy định nguồn lực hỗ trợ từ các TCTD khác, cơ quan bảo hiểm tiền gửi, ngân hàng hợp tác xã.
Bà Hồng cho biết trên thực tế quy định bảo hiểm tiền gửi hiện nay gần như chỉ sử dụng khi TCTD phá sản thôi nhưng mà kinh nghiệm quốc tế cho thấy một số ngân hàng của Mỹ vừa quan cơ quan bảo hiểm tiền gửi đã thực hiện vai trò hỗ trợ.
"Trong thực tiễn từ trường hợp của SCB thì bản thân các TCTD có thể chia sẻ, cho vay đối với ngân hàng này nhưng luật chưa quy định cụ thể nên các TCTD cũng không dám cho vay vì liên quan đến vấn đề rủi ro.
Luật này đã thiết kế theo hướng huy động nguồn lực để hỗ trợ, qua đó tăng trách nhiệm của TCTD đối với an toàn hệ thống nói chung và để giảm chi phí giải quyết của cơ quan quản lý giải quyết những sự cố của TCTD.
Luật này đã thiết kế theo hướng huy động nguồn lực để hỗ trợ, qua đó tăng trách nhiệm của TCTD đối với an toàn hệ thống nói chung và để giảm chi phí giải quyết của cơ quan quản lý giải quyết những sự cố của TCTD", Thống đốc phân tích.
Bà Hồng cho biết thực tế kinh nghiệm quốc tế cho thấy không phải chờ đến khi các TCTD khó khăn về thanh khoản mới cần xử lý.
Thống đốc lấy ví dụ đối với 2 ngân hàng của Mỹ là Silicon Valley Bank và First Republic Bank là các ngân hàng có tổng tài sản trên 200 tỷ USD và có nợ xấu rất thấp dưới 1%. Số dự phòng rủi ro so với nợ xấu là gấp 4,6 lần. Các ngân hàng có lãi liên tiếp trong nhiều quý nhưng vẫn bị rủi ro rút tiền hàng loạt.
Đặc biệt với sự phát triển của công nghệ, người dân dễ dàng rút tiền khi ở nhà nên chỉ trong vài ngày ngân hàng đã bị rút đến hơn 100 tỷ USD. Sau đó Ngân hàng trung ương của Mỹ phải cho vay trên 100 tỷ USD và các ngân hàng khác trong hệ thống cũng phải cho vay vài chục tỷ USD.
Như vậy có thể thấy một ngân hàng bình thường nếu chỉ vì nguyên nhân có lý do nào đấy dẫn tới rút tiền hàng loạt thì đều được đưa vào can thiệp sớm.
Giảm giới hạn về sở hữu cổ đông
Một vấn đề khác được Thống đốc Nguyễn Thị Hồng nhắc đến là điều chỉnh giảm giới hạn về sở hữu cổ đông và người có liên quan.
Dự thảo luật thiết kế như vậy mục đích hướng đến hạn chế việc thao túng và sở hữu chéo trong hoạt động ngân hàng. Đây là yêu cầu của các cấp có thẩm quyền từ Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội đều yêu cầu việc này.
Với tính chất đặc thù của ngành ngân hàng liên quan đến tiền thì dự thảo Luật đã theo hướng mở rộng người có liên quan.
"Đối với ý kiến đại biểu băn khoăn quy định như thế này thì đã khắc phục triệt để được hay chưa, báo cáo các đại biểu là quy định nhưng muốn thực hiện quy định này đi đôi với quy định trong Luật thì phải là vấn đề tổ chức thực hiện.
Trên bề mặt thực tiễn thì tỷ lệ sở hữu cũng như sở hữu chéo về cơ bản được khắc phục. Nhưng trong thực tiễn rõ ràng như một số đại biểu nói rằng có thể các cổ đông nhờ những người có liên quan đứng tên mà đối với ngân hàng cũng không thể nắm được", bà Hồng cho biết.
Thống đốc cho rằng những việc quy định này là một trong những cách để hạn chế thôi còn muốn thực hiện được, giải quyết được việc này thì đòi hỏi cũng rất nhiều công cụ, giải pháp từ nhiều cơ quan khác nhau.
Ví dụ như việc ngày càng minh bạch hóa cơ sở dữ liệu, các giao dịch của dân cư hay cơ sở dữ liệu các giao dịch về vốn cổ phần hay các giao dịch của doanh nghiệp thì lúc đó sự phối kết hợp giữa các bộ ban ngành có thể sẽ minh bạch hóa được các giao dịch thì vấn đề này mới ngày càng hạn chế.
Giảm tỷ lệ cho vay với vốn tự có
Các đại biểu Quốc hội cho rằng việc giảm giới hạn tín dụng cho một khách hàng hoặc một khách hàng và những người có liên quan sẽ làm giảm tổng tín dụng cho nền kinh tế, gây khó khăn cho doanh nghiệp không.
Thống đốc giải trình rằng trên thực tế nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào hệ thống ngân hàng. Nhưng các tổ chức quốc tế cũng cảnh báo rằng nếu nhu cầu đầu tư tiếp tục phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng thì cũng tiềm ẩn rủi ro.
Bất cứ khi nào kinh tế thế giới có những cái biến động phức tạp ảnh hưởng đến doanh nghiệp và người dân thì sẽ ảnh hưởng đến ngân hàng. Khi ngân hàng ảnh hưởng thì hiệu ứng domino sẽ rất hệ lụy đến nền kinh tế.
Chính vì vậy đồng bộ với việc phát triển ngành ngân hàng thì các thị trường như thị trường vốn, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp cần phải được phát triển đồng bộ. Hiện nay Chính phủ đang có các giải pháp để hướng đến điều đó.
Theo dự thảo, tỷ lệ này quy định giảm xuống nhưng với trường hợp nhu cầu vốn vượt 15% vốn tự có thì vẫn có cơ chế các tổ chức tín dụng đồng tài trợ với nhau.
Theo đó, nếu một ngân hàng cho vay một doanh nghiệp có nhu cầu vốn rất lớn thì mức độ tập trung rủi ro tín dụng sẽ rất lớn. Việc đồng tài trợ sẽ chia rủi ro đối với các ngân hàng.
Trong trường hợp các ngân hàng không đồng tài trợ được thì vẫn có một cơ chế là Thủ tướng Chính phủ quyết định. Khi đó thì các cơ quan quản lý đánh giá xem xét về nhu cầu vốn của tập đoàn lớn như ý kiến của một số đại biểu đã nêu.
Thống đốc cho biết, ban soạn thảo sẽ tiếp tục rà soát, quy định sao cho nó phù hợp để làm sao không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và người dân nhưng vẫn đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Theo Mộc An
(Dantri)